Trên vận đơn (đường biển) của nhiều loại hàng nhập khẩu như than, quặng, cám mì viên (wheat bran pellets) để rời (in bulk) có ghi trọng lượng hàng tính bằng tấn nhưng còn có dòng chữ in sẵn “không biết trọng lượng…” (weight, volume, quality, and value unknown”). Theo pháp luật hàng hải của nhiều nước và thông lệ quốc tế, mọi chi tiết về hàng hóa đều do người giao hàng (shipper) cung cấp và như vậy, về nguyên tắc, có nghĩa là những mô tả như số lượng, trọng lượng, khối lượng, chất lượng… của người giao hàng sẽ được nêu trong vận đơn. Thực tế này đã tồn tại từ rất lâu. Do đó, hầu như trên mọi vận đơn đều có in sẵn một câu bảo lưu (hoặc một câu có nội dung tương tự) về vấn đề này như sau : “Người vận chuyển không biết trọng lượng, khối lượng/số lượng, chất lượng và giá trị của hàng hoá” (weight, volume, quality, and value unknown). Như vậy, nếu có nghi ngờ về sự chính xác của những thông tin mô tả hàng hóa mà người giao hàng cung cấp như nói ở trên thì thuyền trưởng có trách nhiệm ghi vào vận đơn những ý kiến của mình. Vì vận đơn là chứng từ có thể chuyển nhượng được (negotiable) nên thuyền trưởng làm như vậy là để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thứ ba “ngay tình” (innocent) – đó là người có thể mua lô hàng căn cứ vào những thông tin thể hiện trên vận đơn.
Với hàng rời, một trong những phương pháp để xác định mức độ chính xác của trọng lượng hàng mà người giao hàng cung cấp (hoặc để tự xác định trọng lượng) là làm giám định mớn nước (draft survey). Tuy vậy, điều cần lưu ý là làm giám định mớn nước không phải là một biện pháp có được độ chính xác mong muốn. Mức độ chính xác của kết quả giám định mớn nước phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định các dữ liệu như: số lượng nhiên liệu còn lại trên tàu, trọng lượng của đồ dự trữ, nước dằn, chất rắn lắng đọng dưới đáy két không thể bơm ra ngoài được… Mức độ chính xác đó còn phụ thuộc vào tỷ trọng (density) nước biển xung quanh tàu lúc giám định. Ngoài ra, việc cân chỉnh tàu (ship’s trim) cũng đóng vai trò rất quan trọng. Mỗi yếu tố nói trên đều có ảnh hưởng đến mức độ chính xác của việc giám định. Vì vậy, trọng lượng hàng hoá xác định bằng cách giám định mớn nước luôn luôn chỉ là một con số “ước tính” hay “vào khoảng” (approximate). Tóm lại, với hàng rời, phải rất thận trọng khi tiến hành xác định trọng lượng hàng hóa bốc lên tàu.
Liên quan đến vấn đề nói trên, Điều 161 Bộ Luật hàng hải Việt Nam 2015 nói về ghi chú trong vận đơn đã dựa trên cơ sở của điều III, khoản 3 Qui tắc Hague/Hague-Visby, mà với tầm quan trọng của nó (qui tắc Hague/Hague-Visby), xin được dịch như sau : “Sau khi nhận hàng, người vận chuyển, thuyền trưởng hoặc đại lý của người vận chuyển sẽ, theo yêu cầu của người giao hàng, cấp cho người giao hàng một bản vận đơn đường biển, ngoài những nội dung khác, có ghi như sau: (a) Những ký mã hiệu chính dùng để nhận biết hàng hoá đã được người giao hàng cung cấp bằng văn bản trước khi bốc hàng, miễn là những ký mã hiệu đó được in, đánh dấu rõ ràng lên hàng hoá hay bằng cách nào khác nếu hàng hoá không có bao bì, hoặc được in, đánh dấu lên bao bì, thùng, hộp, sao cho những ký mã hiệu đó dễ đọc cho đến khi kết thúc chuyến đi biển. (b) Số kiện hoặc chiếc, hoặc số lượng, hoặc trọng lượng, tuỳ trường hợp cụ thể, như người giao hàng cung cấp bằng văn bản. (c) Tình trạng bên ngoài của hàng hoá. Miễn là người vận chuyển, thuyền trưởng hoặc đại lý của người vận chuyển không buộc phải tuyên bố hay thể hiện trên vận đơn bất kỳ ký mã hiệu, con số, số lượng hay trọng lượng nào mà anh ta có cơ sở để nghi ngờ tính chính xác của những hàng hoá mà anh ta đã thực sự nhận hoặc những hàng hoá mà anh ta không có biện pháp thích hợp để kiểm tra” và xin nêu nguyên văn bằng tiếng Anh để bạn đọc tham khảo : “… 3. After receiving the goods into his charge the carrier or the master or agent of the carrier shall, on demand of the shipper, issue to the shipper a bill of lading showing among other things: (a) The leading marks necessary for identification of the goods as the same are furnished in writing by the shipper before the loading of such goods starts, provided such marks are stamped or otherwise shown clearly upon the goods if uncovered, or on the cases or coverings in which such goods are contained, in such a manner as should ordinarily remain legible until the end of the voyage. (b) Either the number of packages or pieces, or the quantity, or weight, as the case may be, as furnished in writing by the shipper. (c) The apparent order and condition of the goods. Provided that no carrier, master or agent of the carrier shall be bound to state or show in the bill of lading any marks, number, quantity or weight which he has reasonable ground for suspecting not accurately to represent the goods actually received, or which he has had no reasonable means of checking”.
Ngô Khắc Lễ (Visaba)