
Hợp đồng vận chuyển theo chuyến có ghi “Thông báo sẵn sàng” (Notice of Readiness – NOR) được đưa dù tàu đã vào cầu hay chưa (Notice of Readiness will be tendered … WIBON – whether in berth or not …). Chủ tàu (người vận chuyển) dựa vào thuật ngữ này (WIBON) để đưa NOR trong khi tàu không thể vào cầu vì thời tiết xấu tuy cầu vẫn trống (free berth) trong khi người thuê vận chuyển không đồng ý với quan điểm này qua vụ kiện dưới đây để bạn đọc tham khảo.
Đây là vấn đề “nổi tiếng”, gây nhiều tranh cãi và kiện tụng từ lâu trong giới hàng hải thương mại quốc tế mãi cho đến ngày 20/10/1988, khi Toà Thượng viện (House of Lords) – cấp xét xử cao nhất ở Anh lúc bấy giờ – có phán quyết cuối cùng trong một vụ kiện qua 3 cấp xét xử tại nước này. Vụ tranh chấp được quan tâm đến mức, “Fairplay” – một tạp chí hàng hải rất có uy tín của Anh, số ra ngày 19/11/1987 (gần một năm trước khi Toà Thượng viện đưa vụ án ra xét xử) viết : “Chúng ta hy vọng rằng Toà Thượng viện sẽ xem xét đầy đủ … nếu không thì sẽ mất đi cơ hội “ngàn năm có một” để cho một toà án có uy tín nhất trong thế giới hàng hải bày tỏ quan điểm của mình…”.
Nội dung vụ việc như sau: Tàu“Kyzikos” được chủ tàu là Bulk Transport Group Shipping Ltd. cho người thuê vận chuyển (Sea Crystal Shipping Ltd.) thuê theo hợp đồng vận chuyển theo chuyến (voyage charter party) mẫu Gencon để chở hàng từ I-ta-li-a (Italy) đến 1 hoặc 2 cảng ở vịnh Mỹ. Tàu đến cảng (khu vực neo đậu) nhưng không thể vào cầu (berthing) vì thời tiết xấu (có nhiều sương mù), trạm hoa tiêu phải đóng cửa, ngừng việc dẫn tàu vào cầu mặc dù lúc đó cầu cảng còn trống và sẵn sàng tiếp nhận tàu. Theo hợp đồng, các bên thỏa thuận là “…1 cầu cảng an toàn, tàu luôn luôn đậu nổi, và luôn luôn có thể ra vào cầu được… và thời hạn làm hàng được tính dù tàu đã vào cảng/vào cầu/hoàn thành kiểm dịch/hải quan hay chưa … (…1 safe berth, always accessible… Laytime to count wibon, wipon, wifpon, wiccon…). Chủ tàu cho rằng thời hạn làm hàng bắt đầu tính sau khi hết thời hạn thông báo (notice time)và sau khi hết thời hạn làm hàng, người thuê vận chuyển phải trả tiền phạt. Người thuê vận chuyển không chấp nhận quan điểm này của chủ tàu. Liên quan đến việc người thuê vận chuyển có phải trả tiền phạt hay không, ngoài những yếu tố khác, vấn đề quan trọng là phải xem xét tác dụng của thuật ngữ “whether in berth or not” (WIBON).
Hai bên đưa tranh chấp ra trọng tài. Trọng tài ra phán quyết rằng thuật ngữ WIBON có tác dụng chuyển “hợp đồng thuê tàu đến cầu” (berth charter) thành “hợp đồng thuê tàu đến cảng” (port charter) nên lý lẽ của chủ tàu là đúng và họ thắng kiện. Ngời thuê kháng án. Tại tòa (High Court, Queen’s Bench Division) thẩm phán Webster, ngoài những vấn đề khác, cho rằng “… ngay cả khi thuật ngữ WIBON có tác dụng chuyển ”hợp đồng thuê tàu đến cầu” thành “hợp đồng thuê tàu đến cảng” thì tàu vẫn chưa phải là một “tàu đã đến” (arrived ship) tại cảng vì lúc đó người thuê vận chuyển không thể sử dụng tàu ngay lập tức và có hiệu quả… (… she was not at that time at the immediate and effective disposition of the charterers…). Do đó, người thuê vận chuyển thắng kiện. “Đến lượt” chủ tàu kháng án lên tòa Thượng thẩm (Court of Appeal). Toà xử rằng (ngoài những vấn đề khác), nhóm từ “whether in berth or not” cho phép đưa “Thông báo sẵn sàng hợp lệ” (valid Notice of Readiness – NOR) một khi tàu đã đến cảng ngay cả khi lý do mà tàu không thể vào cầu là vì thời tiết xấu chứ không phải là vì không có sẵn cầu. Tác dụng của nhóm từ “whether in berth or not” là chuyển ”hợp đồng thuê tàu đến cầu” thành “hợp đồng thuê tàu đến cảng” để cho thời hạn làm hàng (laytime) bắt đầu tính khi tàu còn đang chờ cầu; tàu đã ở trạng thái thích hợp (fit state) để vào cầu và dỡ hàng. Như vậy, chủ tàu có quyền đưa NOR miễn là người thuê vận chuyển có thể sử dụng tàu ngay lập tức và có hiệu quả. Chủ tàu thắng kiện.
Người thuê vận chuyển kháng án lên “Toà Thượng viện” (House of Lords), ngoài các vấn đề khác, Tòa cho rằng tác dụng của nhóm từ (WIBON) là chuyển “hợp đồng thuê tàu đến cầu” thành “hợp đồng thuê tàu đến cảng” nhưng chỉ liên quan đến trường hợp cầu cảng (berth) không có sẵn cho tàu khi tàu đến cảng; Không thể có bất kỳ lý do chính đáng nào cho việc chuyển hợp đồng từ dạng này sang dạng khác trong một trường hợp hoàn toàn khác biệt là cầu cảng thì có sẵn cho tàu khi tàu đến cảng nhưng tàu lại không thể vào cầu cảng vì thời tiết xấu. Nhóm từ “dù đã vào cầu hay chưa – whether in berth or not”phải được giải thích là chỉ áp dụng trong trường hợp cầu cảng không có sẵn chứ không thể áp dụng khi cầu cảng thì có sẵn nhưng tàu lại không thể di chuyển tới cầu cảng vì lý do thời tiết xấu”. (Nguyên văn tiếng Anh: The effect of the phrase (WIBON) was to convert a berth charter party into a port charter party but only in relation to a case where a berth was not available for the ship on her arrival; there was no good reason for applying that effect to a wholly different kind of case where a berth was available for the ship on her arrival but she was prevented by bad weather upon proceeding to it … The phrase “whether in berth or not” should be interpreted as applying only to cases where a berth was not available and not to cases where a berth was available but unreachable by reason of bad weather …”). Người thuê vận chuyển thắng kiện.
Như vậy, chủ tàu không được căn cứ vào thuật ngữ WIBON để đưa NOR trong trường hợp tàu không thể vào cầu vì thời tiết xấu tuy rằng cầu vẫn trống.
Đúng là biết bao công sức, giấy mực và cả “một đống” tiền phải bỏ ra trong vụ án trên để có được một phán quyết “tối thượng”, “đỉnh của chóp” về tác dụng của nhóm từ WIBON nhưng cũng thật “đáng đồng tiền, bát gạo” (value for money) cho “chân lý” đó, nhất là với những người không phải… trả tiền thuê luật sư.
Ngô Khắc Lễ